Tiểu sử Hout Tat

Hout Tat, sinh vào Chủ nhật, ngày 02 tháng 01 năm 1891 (Nhằm ngày 15 tháng 11 năm Nhâm Thìn, PL. 2435) tại làng Phsar Oudong, xã Vaing Chas, huyện Oudong, tỉnh Kampong Speu. Thân phụ thế danh là Hok Seng được gọi là Huot, thân mẫu thế danh là Nghet. Ông có bốn anh em như sau:

1. Bà Hout ⁣Sun
2. Bà Hout Huoy
3. Ông Hout Tat (Chính bản thân ông)
4. Ông Hout Krouy

Năm lên 7 tuổi, ông được phụ mẫu đưa đến trường học quốc ngữ và toán học từ Hòa thượng Bổn sư Meas tại chùa Phrang, cho đến khi ông hiểu biết thành thạo.

Năm 13 tuổi, ông xuất gia thọ giới Sadi từ Hòa thượng Bổn sư Meas, một năm sau Hòa thượng Bổn sư bị lâm bệnh và viên tịch. Để tiếp tục con đường tầm sư học đạo, ông được giới thiệu lên chùa Ounalom, Phnom Penh và tá túc cùng Pháp sư Xua là cháu của Hòa thượng Bổn sư đã được nhắn nhũ dạy bảo Sadi Hout Tat khi Hoà Thượng còn tại thế.

Vài năm sau Pháp sư Xua bị lâm bệnh nặng và viên tịch. Ông không còn chỗ nương tựa như trước nữa. Bấy giờ ông đã 17 tuổi trưởng thành, ông chịu khó chăm chỉ học hành mãi cho đến 19 tuổi, ông đã am hiểu và có thể đứng lớp giảng dạy. Nên ông đã mạnh dạn nhận trách nhiệm dạy và nghiên cứu Tam Tạng kinh. Việc này làm cho tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp nơi. Không những thế, thậm chí Đức Tăng Hoàng thứ I Nil Teang cũng chú trọng đến ông nhiều hơn trước.

Năm 1912 (Nhâm Tý PL.2456), ông đã tròn 20 tuổi. Ông đang say mê trong việc học hành và nghiên cứu Kinh Tạng. Ông thọ Đại giới Tỳ Kheo tại chùa Ounalom với Hòa thượng bổn sư là Đại lão Hòa thượng Nil Teang, cùng hai thầy Yết ma tụng tuyên ngôn cho ông là Thượng tọa Chan và Thượng tọa Kong.

Hout Tat được Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp danh là Vajirapaño. Sau Khi thọ giới Tỳ khưu, ông nỗ lực theo đuổi học hành tinh tấn gấp bội.

Năm 1913 (Quý Sửu PL.2457), ông thi đỗ Maha Prayokha cấp IV của Phật học, là học vị cao nhất trong thời đại đó tại Đền Preah Keo Morakot, Phnom Penh, làm cho các vị A-char và ban giám khảo ai nấy đều phải khen ngợi.

Năm 1919 (Kỷ Mùi PL.2463), ông được bổ nhiệm làm Ủy viên của Hội đồng thành lập Từ điển Khmer.

Ngày 22 tháng 07 năm 1922 (Kỷ Mùi PL.2466), ông được Đức Tăng Hoàng bổ nhiệm làm Sangka Vija. Trong năm này, ông và Choun Nath được Chính phủ Hoàng gia Campuchia cử đi ngoại quốc học ngôn ngữ Pali, Sanskit từ Giáo sư David Phyno nguyên Hiệu trường trường Pháp ngữ Đông dương tại Hà Nội.

Năm 1924 (Giáp Tý PL.2468), sau khi trở về nước. Ông được bổ nhiệm làm Giáo sư dạy tiếng Pali, Sanskrit tại trường Pali cao cấp.

Năm 1948 (Mậu Tí PL. 2492), Ông được tấn phong giáo phẩm là Preah Podhivong.

Năm 1964 (Giáp Thìn PL. 2508), Ông được tấn phong giáo phẩm là Samdech Preah Podhivong.

Năm 1969 (Kỷ Dậu PL. 2513), Ông được tấn phong giáo phẩm là Samdech Preah Mahā Somethea Dhipati.

Năm 1970 (Canh Tuất PL. 2514), Ông được tấn phong giáo phẩm là Samdech Preah Mahā Somethea Dhipati Tăng Hoàng hệ phái Maha Nikaya.

Năm 1975 (Ất Mão PL.2519) ông qua đời, hưởng thọ 84 tuổi đời, 64 tuổi đạo.